VN-Index lần đầu vượt 1.600 điểm và có thể sắp được nâng hạng nhưng các chuyên gia nhận định thị trường “vẫn thiếu hàng hóa” khi chủ yếu là cổ phiếu tài chính, bất động sản.
Một nửa là cổ phiếu tài chính, bất động sản
“Thị trường đang thiếu hàng hóa, đặc biệt công ty thuộc ngành công nghệ, đổi mới sáng tạo. Nếu chỉ có những cổ phiếu cũ, đã tăng mạnh, nhà đầu tư nước ngoài sẽ cảm thấy thiếu đi sự lựa chọn”, ông Thomas Nguyễn, Giám đốc thị trường nước ngoài của Chứng khoán SSI, nói với VnExpress bên lề một sự kiện đầu tháng 8.
Nhận định của ông Thomas Nguyễn đưa ra trong bối cảnh chứng khoán Việt Nam đang kỳ vọng được FTSE Russell – một trong ba công ty cung cấp chỉ số hàng đầu thế giới – nâng hạng thành thị trường mới nổi. VN-Index từ đầu năm cũng tăng 400 điểm (tương ứng 31,5%).
Đến ngày 19/9, giá trị thị trường của tất cả công ty trên sàn chứng khoán Việt Nam đạt hơn 9,5 triệu tỷ đồng (tương đương 352 tỷ USD). Tuy nhiên, nhóm tài chính và bất động sản đã chiếm hơn 50% vốn hóa. Trong khi đó, ngành công nghiệp sản xuất hay công nghệ thông tin – nhóm công ty được coi là xu hướng của thế giới – chỉ đóng góp lần lượt 10,6% và 2,1%.
Điều này trái ngược với một số thị trường chứng khoán tại các nước phát triển. Tại Mỹ, trong S&P 500, vốn hóa của các công ty công nghệ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chỉ số này, đạt 34%. Theo sau là tiêu dùng không thiết yếu (10,4%), chăm sóc sức khỏe (9,9%), truyền thông (9,9%). Nhóm ngân hàng và bất động sản chỉ đóng góp hơn 15% vốn hóa.
S&P 500 là chỉ số chứng khoán được dựa trên vốn hóa của 500 công ty đại chúng lớn nhất nước Mỹ, đại diện cho 70% thị trường chứng khoán nước này.
Tại Nhật Bản, theo MSCI Japan Index, hai nhóm chiếm tỷ trọng vốn hóa lớn nhất trong bộ chỉ số này là ngành công nghiệp (24,84%), tiêu dùng (17,07%). Tài chính và bất động sản chỉ đóng góp lần lượt 16,56% và 2,27%.
MSCI Japan Index là chỉ số được tạo nên để theo dõi 183 công ty, đại diện 85% vốn hóa thị trường chứng khoán Nhật Bản. Các công ty có giá thị trường lớn nhất tại đất nước này có nhiều cái tên nổi tiếng trong ngành công nghiệp nặng như Toyota, Sony, Hitachi, Nintendo, Mitsubishi…
Cùng quan điểm, ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển khách hàng cá nhân của Chứng khoán Yuanta Việt Nam, nhận định thị trường còn thiếu hàng hóa chất lượng cao nếu xét trên quy mô vốn hóa. Chuyên gia này cho biết chứng khoán Việt Nam có hơn 1.600 cổ phiếu đang giao dịch, nhưng tổng giá trị chỉ khoảng 300 tỷ USD. Như vậy, vốn hóa của mỗi công ty khoảng 187,5 triệu USD.
Tuy nhiên, nếu nhìn sang Thái Lan, nước này chỉ có hơn 600 cổ phiếu trên sàn, nhưng vốn hóa đạt khoảng gần 400 tỷ USD, lớn hơn Việt Nam. Như vậy, trung bình giá trị mỗi công ty tại Thái Lan 700 triệu USD. “Điều này cho thấy phần lớn cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam có vốn hóa vừa và nhỏ”, ông Thế Minh nhận định.

Các ngân hàng áp đảo về số lượng trong top 15 công ty lớn nhất trên sàn chứng khoán. Ảnh: Trọng Hiếu.
Ông Nguyễn Thế Minh đánh giá việc cổ phiếu ngân hàng và công ty bất động sản chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nếu hai nhóm này có diễn biến khả quan, chỉ số chứng khoán sẽ cải thiện mạnh. “Tuy nhiên, bất động sản là nhóm kinh doanh có chu kỳ. Nhóm này diễn biến kém tích cực, thị trường sẽ lao dốc”, ông Minh nói.
Năm 2022, các công ty bất động sản như Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát, Novaland, Phát Đạt, Hải Phát… gặp khó khăn vì nhiều dự án vướng pháp lý và các biến cố ở kênh trái phiếu. Vì vậy, VN-Index đã giảm 51% trong năm đó, từ 1.500 điểm về còn hơn 1.000 điểm.
Đại diện Công ty cổ phần Quản lý Quỹ đầu tư Dragon Capital Việt Nam (DCVFM) cũng cho rằng cơ cấu ngành niêm yết trên thị trường chưa thật sự đa dạng. Các ngành có tiềm năng tăng trưởng bền vững như công nghệ, y tế, năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng tương đối thấp. “Điều này phần nào hạn chế khả năng đa dạng hóa danh mục của các dòng vốn lớn, từ đó giảm sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam với các nhà đầu tư chiến lược”, chuyên gia từ DCVFM chia sẻ.
Không chỉ thiếu chất lượng, ông Thế Minh cho rằng chứng khoán Việt Nam còn thiếu các sản phẩm phái sinh dựa trên cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ niêm yết. “Các sản phẩm trên thị trường còn cơ bản, vẫn chưa có hợp đồng hoán đổi hay quyền chọn…”, chuyên gia chứng khoán Yuanta nói.
Đồng quan điểm, đại diện DCFVM nhận định hiện nay thị trường trong nước mới có quỹ cổ phiếu, quỹ trái phiếu và một số ETF cơ bản. Trong khi ở các nước phát triển, danh mục sản phẩm quỹ đã rất đa dạng: từ quỹ tiền tệ (Money Market Fund), REIT – quỹ bất động sản, đến quỹ chỉ số theo mục tiêu, ETF vàng, hay thậm chí ETF đòn bẩy/nghịch đảo…
Chuyên gia của quỹ này chia sẻ việc phát triển thêm các sản phẩm này sẽ tạo thêm lựa chọn cho nhà đầu tư với nhiều mức độ rủi ro, thanh khoản, hoặc mục tiêu lợi nhuận khác nhau. Quan trọng hơn, sự đa dạng hóa giúp thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, nâng cao chất lượng dòng vốn và đưa thị trường Việt Nam tiệm cận chuẩn mực quốc tế.

Nhà đầu tư đang quan sát bảng điện tại một công ty chứng khoán ở quận 1, TP HCM. Ảnh: An Khương
Khuyến khích IPO và niêm yết
Để giải quyết tình trạng thiếu hàng hóa trên thị trường, cơ quan quản lý xem khuyến khích doanh nghiệp IPO và niêm yết cổ phiếu là một trọng tâm. Tại một sự kiện trong tháng 7, bà Phạm Thị Thùy Linh – Trưởng Ban Phát triển thị trường chứng khoán (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) – cho biết Bộ Tài chính đã bổ sung các quy định mới thực hiện chủ trương gắn IPO với việc niêm yết cổ phiếu.
“Chúng tôi muốn rút ngắn quy trình, thủ tục của hai khâu này. Doanh nghiệp sau khi IPO sẽ được niêm yết luôn”, bà Thùy Linh chia sẻ. Trưởng Ban Phát triển thị trường chứng khoán nhận định đây là giải pháp phù hợp hiện nay, nhiều doanh nghiệp mong đợi.
Ngoài ra, theo quy định của Luật Chứng khoán 2019, để thực hiện IPO trên sàn chứng khoán Việt Nam, doanh nghiệp cần bảo đảm có lợi nhuận trong 2 năm liên tiếp trước khi đăng ký IPO và không có lỗ lũy kế. Quy định này rất khó thực hiện đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ, bởi giai đoạn đầu tư ban đầu thường kèm theo thua lỗ tạm thời do chi phí đầu tư cao cho nghiên cứu và phát triển.
Tháng 3 năm nay, Viện Chiến lược phát triển kinh tế số (IDS) thuộc Bộ Tài chính còn đề xuất nghiên cứu các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật để start-up chưa có lãi vẫn có thể IPO trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Các chuyên gia đến từ IDS cho rằng Việt Nam đã có một số công ty công nghệ có tiềm năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này gặp rào cản về huy động vốn để phát triển quy mô.
Ông Trần Quốc Toàn, Giám đốc chi nhánh 2 – hội sở Công ty cổ phần Chứng Khoán Mirae Asset, nhận định việc nhiều doanh nghiệp mới có thương hiệu, tình hình tài chính ổn định IPO sẽ giúp nhà đầu tư, đặc biệt là tổ chức và nước ngoài có thêm lựa chọn hàng hóa.
Từ góc độ của một nhà tư vấn phát hành, ông Thomas Nguyễn đề xuất Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nên đưa ra chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được IPO tại Việt Nam. Chuyên gia này đánh giá các công ty này đều đạt chất lượng cao, có thể giảm bớt tỷ trọng của ngành ngân hàng và bất động sản trong cơ cấu vốn hóa của thị trường.
Ví dụ, Samsung – thông qua 4 nhà máy – đã thu về tổng cộng 60 tỷ USD doanh thu (khoảng 1,5 triệu tỷ đồng) trong năm 2024 từ thị trường Việt Nam. Các công ty phi tài chính lớn niêm yết như Vingroup, Vinhomes, Hòa Phát… chưa từng đạt con số này. Trừ các chi phí, Samsung thu lãi khoảng 3,5 tỷ USD năm ngoái từ Việt Nam, gấp hơn 3 lần đơn vị lãi lớn nhất trên sàn chứng khoán là Vietcombank.
Ngoài việc khuyến khích doanh nghiệp lên sàn, Bộ Tài chính cũng sẽ đưa vào một số sản phẩm mới cho nhà đầu tư. Hai sản phẩm được nhắc tới nhiều thời gian gần đây là giao dịch trong ngày (intraday trading) và bán chứng khoán chờ về (short selling).
Chia sẻ tại một sự kiện trong tháng 7, ông Nguyễn Sơn, Chủ tịch hội đồng thành viên Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VDSC), cho biết các sản phẩm này đã được tích hợp trong hệ thống KRX, sẽ sớm được triển khai. Ngoài ra, ông Nguyễn Sơn tiết lộ thị trường chứng khoán đang hướng tới việc giao dịch xuyên trưa.
Còn ở góc độ của nhà đầu tư, DCVFM cho rằng Việt Nam có thể cân nhắc chính sách khuyến khích dòng vốn trong nước thông qua ưu đãi thuế cho đầu tư dài hạn vào các quỹ đầu tư. Chính sách này sẽ giúp người dân tích lũy cho các mục tiêu dài hạn như hưu trí, giáo dục, chăm sóc sức khỏe… và thay đổi hành vi đầu tư theo hướng đầu tư bền vững. Khi đó, dòng vốn qua quỹ sẽ mang tính ổn định, dài hạn và được phân bổ hiệu quả vào doanh nghiệp niêm yết, đặc biệt là khu vực tư nhân – nơi cần vốn cho mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ và tạo việc làm.
Trọng Hiếu